LỜI CẨN BẠCH

 

Nam mô thập phương thường trú Tam Bảo, tác đại chứng minh.

 

Nam mô Trung thiên giáo chủ điều ngự bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật, tác đại chứng minh.

 

Nam mô đại thừa vô môn thị hiện tầm thanh, cứu khổ cứu nạn Quán Thế Âm Bồ Tát, tác đại chứng minh.

 

 

Kính thưa quư Thức giả và Phật tử,

 

Cuốn Đại Bi Chú Giảng của ngài Ấn Thánh đă được biên soạn từ lâu lắm; đồng thời, cũng có những vị Thức giả dịch ra Việt văn dưới nhiều dạng thức khác nhau và đă được in ấn từ quốc nội cũng như tại hải ngoại. Tuy nhiên, sau khi chúng tôi nghiền ngẫm và đọc lại tất cả những bản đă được biên soạn về Chú Đại Bi, phần Hán văn cũng như Việt văn, thiết nghĩ ở hải ngoại, hầu hết quư Phật tử đều bận rộn với nhiều hoàn cảnh khác nhau, không có th́ giờ để tŕ tụng nghiên cứu ư nghĩa cho được rơ ràng; chúng tôi mạo muội nương theo những bản đă có sẵn, thu tóm lại những phần chính yếu để có một cuốn với tựa đề:

 

“Chú Đại Bi Lược Giải”

 

cho hàng Phật tử dễ dàng tŕ tụng và t́m hiểu. V́, mỗi lần tụng kinh bái sám, trong đó có Chú Đại Bi Tâm Đà La Ni, nhưng hầu hết hàng Phật tử của chúng ta không thể thâm hiểu về thâm ư, hoặc không hiểu thấu triệt ư nghĩa cốt lơi của bài mật chú rơ ràng và, có thể nói mỗi lần tụng như vậy th́ chỉ như tụng cho có tụng hoặc sợ rằng tụng không đủ th́ có tội với Tam Bảo, v..v...

 

Được sự nhiệt t́nh khuyến khích của gia đ́nh Ông Bà Lưu Vĩnh Lữ, với những phước đức nhơn duyên lớn lao đó, chúng tôi t́m cách phụng soạn lại cuốn sách nầy không ngoài mục đích để cho hàng Phật tử chí thành tu niệm, mặc dầu th́ giờ tuy ít vẫn có cơ duyên đọc tụng và hành tŕ mà không gặp sự khó khăn, trở ngại nào cả.

 

Kính mong tất cả đều hoan hỷ cho việc làm có tính cách góp nhặt nầy của chúng tôi.

 

Trân trọng,

 

Phật lịch  1525 – 2001

Hoa Kỳ, ngày cuối đông,

 

Tỳ kheo THÍCH TÍN NGHĨA

 

 

 

 

*

*   *

 
 
Chú Đại Bi

 

Nam mô đại bi hội thượng Phật Bồ Tát. (3 lần)

 

       Thiên thủ thiên nhăn vô ngại đại bi tâm đà la ni:

      

       Nam mô hát ra đát na đá ra dạ da.

       Nam mô a rị da. Bà lô yết đế thước bát ra da. Bồ đề tát đỏa bà da. Ma ha tát đỏa bà da. Ma ha ca lô ni ca da. Án. Tát bàn ra phạt duệ. Số đát na đát tả. Nam mô tất cát lật đỏa y mông a rị da. Bà lô cát đế thất Phật ra lăng đà bà. Nam mô na ra cẩn tŕ. Hê rị ma ha bàn đá sa mế. Tát bà a tha đậu du bằng. A thệ dựng. Tát bà tát đá (na ma bà tát đa *) na ma bà dà. Ma phạt đặc đậu. Đát điệt tha. Án a bà lô hê. Lô ca đế.  Ca ra đế. Di hê rị. Ma ha bồ đề tát đỏa. Tát bà tát bà. Ma ra ma ra. Ma hê ma hê rị đà dựng. Câu lô câu lô yết mông. Độ lô độ lô phạt xà da đế. Ma ha phạt xà da đế. Đà ra đà ra. Địa rị ni. Thất Phật ra da. Dá ra dá ra. Mạ mạ phạt ma ra. Mục đế lệ. Y hê y hê. Thất na thất na. A ra sâm Phật ra xá lợi. Phạt sa phạt sâm. Phật ra xá da. Hô lô hô lô ma ra. Hô lô hô lô hê rị. Ta ra ta ra. Tất rị tất rị. Tô rô tô rô. Bồ đề dạ bồ đề dạ. Bồ đà dạ bồ đà dạ. Di đế lị dạ. Na ra cẩn tŕ. Địa lị sắt ni na. Ba dạ ma na, ta bà ha. Tất đà dạ, ta bà ha. Ma ha tất đà dạ, ta bà ha. Tất đà du nghệ. Thất bàn ra dạ, ta bà ha. Na ra cẩn tŕ, ta bà ha. Ma ra na ra, ta bà ha. Tất ra tăng a mục khư da, ta bà ha. Ta bà ma ha a tất đà dạ, ta bà ha. Giả cát ra a tất đà dạ, ta bà ha. Ba đà ma yết tất đà dạ, ta bà ha. Na ra cẩn tŕ bàn dà ra dạ, ta bà ha. Ma bà lợi thắng yết ra dạ, ta bà ha.

 

Nam mô hát ra đát na đá ra dạ da. Nam mô a lị da. Bà lô cát đế. Thước bàn ra dạ, ta bà ha.

 

“Án, tất điện đô. Mạn đa ra. Bạt đa da, ta bà ha.”. (3 lần)

 

(Ghi chú :   (*) Trong bản Hán văn và h́nh thứ 16 có năm chữ nầy. Tuy nhiên, không biết lư do nào và v́ sao đă mất hẳn sự tŕ tụng từ lâu qua các bản Việt văn? Chúng tôi cũng ghi ra cho rơ, để quư vị tham khảo và biết sự thiếu sót nầy.)

 

 

*

*   *

 

 

Lược Giải Chú Đại Bi

 

1.-  Dẫn nhập:

 

Chú Đại Bi được phát xuất từ  sự xác quyết do kim khẩu của Bồ tát Quán Thế Âm. Thường được gọi là Thần chú, Linh chú. Bởi v́ ai tin và thành tâm hành tŕ thần chú nầy th́ bản thân người ấy đă có đủ Đại bi tâm. Thần chú nầy do Bồ tát Quán Thế Âm nói ra và được chư Phật ấn chứng mà gần nhất là đức Thích Ca Như Lai Từ Phụ của chúng ta nghe và đức Thích Ca cũng ấn chứng.

 

Thần chú nầy có rất nhiều tên khác nhau như:

 

Quảng đại Viên măn, Vô ngại Đại bi, Cứu khổ Đà la ni, Diên thọ Đà la ni, Măn nguyện Đà la ni, Diệt ác thú Đà la ni, Phá ác nghiệp chướng Đà la ni,  Tối siêu thượng Đà la ni,..

 

Những danh hiệu trên đây, đức Phật đă trực tiếp hướng dẫn cho ngài A Nan và Đại chúng biết. Nguyên Thần chú nầy tên rất dài: “Thiên thủ thiên nhăn Quán Thế Âm Bồ tát Quảng đại Viên măn Vô ngại Đại bi tâm Đà la ni thần chú”. Bài chú gồm có 84 câu.

 

Đức Phật đă từng nói với Bồ tát Quán Thế Âm:

 

-  “Hởi thiện nam tử, ngươi nên bền ḷng tŕ tụng Thần chú nầy, sẽ có tác dụng lớn trong việc tế độ chúng sanh trong những ác nghiệp của các kiếp sau ....”

 

Căn cứ vào sự ghi chép trong kinh điển, lúc ấy Bồ tát Quán Thế Âm sau khi nghe đức Phật hướng dẫn, Ngài liền phát nguyện tŕ tụng liên tục từ cảnh giới Sơ địa đến Bát địa và thẳng lên Bất động địa. Cũng từ đó, ngài phát đại nguyện: Cầu cho kiếp sau của ngài phổ độ cho hết thảy chúng sanh đều được vui thích và mong cho ngài được ngàn cánh tay, ngàn con mắt.

 

Sau khi phát nguyện xong, phút chốc, toàn thân ngài đă đầy đủ cả ngàn tay, ngàn mắt; tất cả mười phương đều chấn động và mưa hoa cúng dường. Chư Phật cũng phóng hào quang rực rỡ, soi khắp đó đây. Từ đó, Thần chú nầy mới có nhiều danh hiệu như vậy.

 

Đức Phật bảo ngài An Nan rằng:

 

Kết quả có được của Bồ tát Quán Thế Âm là do sự phát đại thệ nguyện v́ chúng sanh.

 

Những ai phát nguyện nhất tâm tŕ tụng th́ sẽ được tiêu trừ tội chướng trong đời nầy và kiếp vị lai. Trong giây phút lâm chung, nếu ḿnh tự niệm hoặc được thiện tín thành tâm hộ niệm th́ sẽ được văng sanh hoặc đến quốc độ mà ḿnh muốn đến. Có đức Phật A Di Đà và chư vị Bồ tát thùy từ tiếp dẫn.

 

Những ai trong đời nầy, nhất tâm tŕ tụng Đại bi tâm chú th́ sẽ được toại nguyện về 15 loại thiện sanh và trừ được 15 loại ác tử.

 

a. Mười lăm loại thiện sanh:

 

1.      Nơi được sanh ra thường gặp năm điều lành.

2.      Thường được sanh ở nước lành (thiện quốc).

3.      Thường gặp thời hay, vận tốt.

4.      Thường gặp được thầy sáng, bạn lành.

5.  Thân các căn đều trọn vẹn, đầy đủ (lục căn hoàn cụ)

6.      Đạo tâm luôn được thuần hậu, chơn chánh.

7.      Không phạm cấm giới.

8.      T́nh anh em cốt nhục đều được thuận ḥa, an lạc.

9.      Trọn đời cơm áo đầy đủ, nhàn nhă.

10. Luôn luôn được mọi người kính mến, thương giúp.

11. Tài sản, của cải không bao giờ bị cướp đoạt.

12. Cầu ǵ đều được toại ư. (Sở cầu như ư)

13. Luôn được thiện thần, hộ pháp bảo vệ.

14. Nơi được sinh ra thường được nghe Phật thuyết pháp.

15. Khi nghe được Chánh pháp là hiểu ngay được thâm ư mà trực ngộ lời Phật dạy.

 

b. Mười lăm loại về ác tử:

 

1.      Không bị chết khốn khổ về đói khát, loạn lạc.

2.      Không bị chết v́ giam cầm, đánh đập.

3.      Không  bị chết v́ thù oán.

4.      Không bị chết nơi trận địa.

5.      Không bị chết v́ thú dữ cắn xé.

6.      Không bị chết v́ rắn, rết cắn.

7.      Không bị chết cháy hay chết đuối.

8.      Không bị trúng độc khi ăn uống mà chết.

9.      Không bị các loại trùng độc sát hại.

10. Không bị cuồng loạn hay thất vọng mà chết.

11. Không bị cây cối rơi trúng hoặc sa xuống hầm hố mà chết.

12. Không bị người khác trấn ếm, trù ẻo mà chết.

13. Không bị tà thần, ác quỷ làm hại để chết.

14. Không bị chết v́ ác bệnh.

15. Không bị chết oan (tự tử, bất đắc kỳ tử, ...).

 

V́ những điều nêu trên, Chú Đại Bi có thể trừ được tất cả những tai nạn, những khổ nạn và thành tựu được những toại nguyện. Những ai chí thành tŕ niệm th́ được những điều lợi ích như trên và sẽ được xa lánh mọi ưu bi, khổ năo cho chính ḿnh và có thể cứu giúp được tha nhân như Đại bi tâm của Bồ tát Quán Thế Âm.

 

 

2.-   Giải thích:

 

Nam mô :  tức là Quy y, nương về, nương theo,

 

Hát ra đát na đá ra dạ da :  tức là Tam bảo (Phật, Pháp Tăng),

 

Nam mô :  tức là Quy mạng, cũng có nghĩa là Quy y,

 

A lị da :  tức là Thánh,

 

Bà lô yết đế :  tức là Quán,

 

Thước bát ra da :  tức Tự tại,

 

Bồ đề tát đỏa bà da :  tức là Giác hữu t́nh,

 

Ma ha tát đỏa bà da :  tức là Đại giác hữu t́nh,

 

Ma ha ca lô ni ca da :  tức là người có ḷng đại bi. (Đại bi tâm giả),

 

Án :  tức là Quy mạng,

 

Tát bàn ra phạt duệ :  tức là Nhất thế tôn,

 

Số đát na đát tả :  tức là Vị cứu hết thảy sự khủng bố,

 

Nam mô :  tức là Quy mạng,

 

Nam mô tất cát (hay kiết) :  tức là kẻ ở bên kia (Ư bỉ),

 

Y mông a lị da :  tức là Thánh của chúng ta (Ngă thánh),

 

Bà lô cát đế, thất Phật ra lăng đà bà :  tức là Quán tự tại Hương sơn,

 

Nam mô :  tức là Quy mạng,

 

Na ra cẩn tŕ :  tức là Uy lực của Thánh Quán tự tại, tên là Thanh cảnh chí tâm chơn ngôn,

 

Hê rị ma ha bàn đá sa mế :  tức là Ta nay tuyên thuyết,

 

Tát bà a tha đậu du bằng :  tức là Vị có hết thảy mọi sự hy vọng viên măn và có ánh sáng rực rỡ,

 

A thệ dựng :  tức là Không ǵ có thể so sánh được,

 

Tát bà tát đá :  tức là Hết thảy mọi quỷ thần không thể đánh thắng được.

 

 (* ma bà tát đá) na ma bà dà :  tức là Đồng chơn,

 

Ma phạt đặc đậu :  tức là Người có đạo tâm đang ở trong cơi mê khiến sớm cho được thanh tịnh,

 

Đát điệt tha :  tức là Có nghĩa là,

 

Án :  tức là Quy mạng,

 

A bà lô hê :  tức là Bậc có trí tuệ sáng suốt,

 

Lô ca đế :  tức là Quán tự tại,

 

Ca ra đế :  tức là Đấng siêu việt thế gian,

 

Di hê lị :  tức là Vị sư tử vương,

 

Ma ha bồ đề tát đỏa :  tức là Đại Bồ tát,

 

Tát bà tát bà :  tức là Hết thảy hết thảy,

 

Ma ra ma ra :  tức là Ghi nhớ, ghi nhớ,

 

Ma hê ma hê rị đà dựng :  tức là Tâm chơn ngôn,

 

Câu lô câu lô yết mông :  tức là Làm sự nghiệp,

 

Độ lô độ lô :  tức là Bảo tŕ, bảo tŕ,

 

Phạt xà da đế :  tức là Người dạo chơi ở trên không (Du không giả),

 

Ma ha phạt xà da đế :  tức là Người oai đức lớn (Ma ha) dạo chơi ở trên không (Đại du không giả),

 

Đà ra đà ra :  tức là Bảo tŕ, bảo tŕ,

 

Địa rị ni :  tức là Kẻ tŕ tụng,

 

Thất Phật ra da :  tức là Vua Tự tại (Đế vương tự tại),

 

Dá ra dá ra :  tức là hành động,

 

Mạ mạ phạt ma ra :  tức là Không bị bụi bám vào (Vô cấu nhiễm),

 

Mục đế lệ :  tức là Thể không nhơ nhớp (Vô cấu thể),

 

Y hê y hê :  tức là Lời giáo dục, dạy dỗ (Giáo ngữ),

 

Thất na thất na :  tức là Lời thề rộng lớn (Đại thệ nguyện),

 

A ra sâm :  tức là vua (Vương),

 

Phật ra xá lị :  tức là sự Giác ngộ kiên cố (Giác kiên cố tử),

 

Phạt sa phạt sâm :  tức là Hoan hỷ, vui vẻ,

 

Phật ra xá da :  tức là Trừ mọi độc hại do tham sân si gây nên,

 

Hô lô hô lô ma ra :  tức là Làm phép không bị nhiễm ô (tác pháp vô cấu

nhiễm),

 

Hô lô hô lô hê rị :  tức là mau chóng, mau chóng, tóc đă bạc rồi.

 

Ta ra ta ra :  tức là Kiên cố vậy (kiên cố giả),

 

Tất rị tất rị :  tức là Hoa sen,

 

Tô rô tô rô :  tức là Cọng hoa sen,

 

Bồ đề dạ bồ đề dạ :  tức là tỉnh ngộ, tỉnh ngộ,

 

Bồ đà dạ bồ đà dạ :  tức là Dạy cho được Giác ngộ,

 

Di đế rị dạ : tức là Người có ḷng từ bi,

 

Na ra cẩn tŕ :  tức là Thanh cảnh, xinh đẹp,

 

Địa lị săt ni na :  tức là Bền chắc và lanh lợi,

 

Ba dạ ma na :  tức là Nghe tên (danh văn),

 

Ta bà ha :  tức là Ḷng mong mỏi được gặp th́ sẽ được hiển hiện, sanh ḷng hoan hỷ, viên măn tới niết bàn,

 

Tất đà dạ :  tức là Nghĩa,

 

Ta bà ha :  tức là Bậc đă được thành tựu,

 

Ma ha tất đà dạ :  tức là Bậc đại nghĩa,

 

Ta bà ha :  tức là bậc đă được thành tựu lớn lao, đại thành tựu,

 

Tất đà du nghệ :  tức là Vô vi,

 

Thất bàn ra dạ :  tức là Bậc Đại tự tại,

 

Ta bà ha :  Bậc Tự tại  bởi Tất địa và Du già,

 

Na ra cẩn tŕ :  tức là Hiền ái,

 

Ta bà ha :  tức là V́ thanh cảnh viên măn nên được thành tựu,

 

Ma ra na ra :  tức là Như ư tối tôn,

 

Ta bà ha :  tức là được Thành tựu,

 

Tất ra tăng a mục khư da :  tức là Nghĩa thứ nhất của tiếng yêu thương (ái ngữ đệ nhất nghĩa),

 

Ta bà ha :  tức là Tay cầm hoa sen,

 

Ta bà ma ha :  tức là Đại thành tựu,

 

A tất đà dạ :  tức là Không có ǵ so sánh được (Vô tỷ),

 

Ta bà ha :  tức là Thành tựu,

 

Giả cát ra a tất đà dạ :  tức là Không có ǵ để so sánh được,

 

Ta bà ha :  tức là Thành tựu,

 

Ba đà ma yết tất đà dạ :  tức là Đại nghĩa,

 

Ta bà ha :  Đấng được khai ngộ v́ nghe được tiếng pháp loa,

 

Na ra cẩn tŕ bàn đà ra dạ :  tức là Bậc hiền thủ thánh tôn,

 

Ta bà ha :  tức là Thành tựu,

 

Ma bà lợi thắng yết ra dạ :  tức là Anh hùng uy đức sanh tánh,

 

Ta bà ha :  tức là Thành tựu, đại thành tựu (sự chinh phục tất cả ma chướng).

 

Nam mô hát ra đát na đá ra dạ da :  tức là Quy mạng Tam bảo (Phật Pháp Tăng),

 

Nam mô :  tức là Quy mạng, quy y,

 

A lị da :  tức là Thánh,

 

Bà lô cát đế :  tức là  Quán,

 

Thước bàn ra dạ :  tức là Tự tại,

 

Ta bà ha :  tức là Thành tựu,

 

Án :  tức là Quy mạng, quy y,

 

Tất điện đô :  tức là Khiến cho tôi sớm được thành tựu,

 

Mạn đà ra :  tức là Chơn ngôn,

 

Bạt đà da :  tức là Đều (Câu hay cu),

 

Ta bà ha :  Thành tựu, sớm thành tựu.

 

 

3.-  Đại ư của bài Thần chú:

 

Con kính cẩn cúi đầu trước ngôi Tam bảo Phật Pháp Tăng. Nguyện xin quy y theo đức Thánh Quan Tự Tại. Con nguyện  đem thân mạng mà quy y với đức đại Bồ tát có ḷng đại từ đại bi, mà cầu xin sớm được thành tựu sự giác ngộ để cứu độ cho hết thảy chúng sanh do mê muội đang bị khủng bố trên thế gian nầy. Do đó, con đem cả thân mạng mà quy y với đức Đại Bồ Tát có ḷng đại từ bi. Một ḷng thề nguyện truyền bá rộng răi ḷng từ bi của đức Thánh Quán Tự Tại Bồ Tát; lắng nghe tâm chơn ngôn (tổng tŕ pháp môn tâm chơn ngôn và Phật nội chứng), vâng theo mệnh của bổn tôn là Đại bi tâm đà la ni nầy mà hết ḷng xưng tụng công đức Quán Tự Tại Bồ Tát, tất cả mọi hy vọng đều được viên măn, làm sáng tỏ tính chất đồng thể đại bi thanh tịnh viên minh và làm cho tất cả quỷ thần đều không thể đánh thắng được uy lực to lớn của Ngài. Với những kẻ có đạo tâm, không bao giờ bị vô minh phiền năo mê hoặc, không bao giờ bị đắm ch́m trong cảnh mê muội, u tối và được dẫn dắt tới thế giới quang minh của đức Đại Bồ Tát. Trí tuệ quang minh được biểu hiện siêu tuyệt nhất thế gian là đức Bồ Tát có công đức vô cùng vĩ đại. Có đấng quy mạng giống như đức Tự Tại Sư Tử Vương Đại Bồ Tát. Ức niệm nói chung của bản thể tâm chơn ngôn của Bồ tát cũng giống như đi ở trên không trung để thuyết giảng chánh pháp một cách lớn lao và tự tại, hoặc là làm công việc tư duy về một công việc to rộng. Cũng như các bậc vua chúa, bất kể việc ǵ, đều được đức Bồ tát làm một cách tự do, tự tại. Được hành động bởi một thân thể thanh tịnh, không mảy may dơ bẩn, hoặc để trừ mọi hành vi dơ bẩn của ba cái độc hại là tham, sân và si; cũng như diệt trừ mọi ác ma độc hại ở trên thế gian nầy. Như thế sẽ nhanh chóng có mái tóc đẹp như hoa sen thanh tịnh và cầm lấy được hoa sen của đức Bồ tát. Giáo hóa được nghiệp ngu si của ta và chứng ngộ được ḷng yêu thương vô bờ bến. Khiến được sanh ḷng hoan hỷ của Bồ tát Quán Tự tại.

 

Muốn được tới cơi niết bàn (thành tựu viên măn) sẽ được thấy cơi niết bàn, và cũng tới được cảnh giới Tất địa (nơi ngộ đạo) với Du già (tương ứng hiệp nhập) th́ được tự do, vô ngại. Trong đó, cũng có kẻ không phải là loài người (mặt heo cổ xanh, có kẻ mặt sư tử), con nào từ bi th́ biểu thị tay cầm hoa sen, để thâu nhiếp chánh pháp trừ ma quỷ phiền năo. Nghe tiếng pháp loa vi diệu được chuyển mê khai ngộ, hết thảy đều quy y Tam bảo.

 

Nam mô Thánh Quan Tự Tại Bồ Tát, khiến cho được tới cơi niết bàn, để tŕ tụng lời chơn ngôn này ở nơi niết bàn thanh tịnh, trang nghiêm.

 

Trên đây là đại ư toàn bài Chú đại bi, mong quư vị đọc nhiều lần và thành tâm hành tŕ th́ sẽ được như nguyện; đồng thời, một khi đă được thâm hiểu, xin quư vị hướng dẫn bằng hữu cùng tu tập theo, để gieo duyên với cảnh giới Thường Tịch Quang Tịnh Độ.